Từ năm 1996, TTHC bắt đầu được Tòa án (TA) Việt Nam áp dụng để thực hiện quyền xét xử các VAHC và thuật ngữ chứng cứ đã được sử dụng nhiều trong quá trình tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, khái niệm chứng cứ chỉ được quy định lần đầu tiên trong Luật TTHC năm 2010 và được kế thừa, bổ sung thêm trong Luật TTHC năm 2015. Luật TTHC đã dành riêng một chương quy định về chứng minh và chứng cứ, trong đó có đưa ra khái niệm cụ thể về chứng cứ trong VAHC như sau: “Chứng cứ trong VAHC là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho TA trong quá trình tố tụng hoặc do TA thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà TA sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Nội hàm của khái niệm chứng cứ thông qua khái niệm chứng cứ như trên thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, chứng cứ phải là những gì “có thật”, nghĩa là trong nhận thức của con người, khi chọn cái gì làm chứng cứ, họ hoàn toàn tin tưởng đó là sự thật, không có một chi tiết giả mạo nào xen vào, bất kỳ chứng cứ nào khi không có thật thì sẽ không có giá trị chứng minh trong VAHC. Tính có thật của chứng cứ được xác định bởi những đơn vị đo lường nhất định, gắn liền với sự hiện hữu của chứng cứ, được thể hiện dưới những hình thức nhất định và thông qua đó, chủ thể chứng minh cung cấp được cho TA và TA xác định được những nội dung mà dựa vào đó làm căn cứ giải quyết vụ án. Với tính có thật của chứng cứ, con người chỉ có thể tiếp cận chứng cứ, nhận thức về chứng cứ mà không thể sửa đổi hoặc làm nó khác đi. Nếu những gì mà do con người giả mạo, hay ngụy tạo ra theo ý chủ quan, không đúng với sự thật, thì không thể xem đó là chứng cứ. Tính “có thật” của chứng cứ càng cao thì có giá trị chứng minh để giải quyết đúng đắn VAHC càng lớn.
Thứ hai, chứng cứ phải “có giá trị chứng minh” các tình tiết, sự kiện trong vụ án. Tất cả những gì có thật, có liên quan tới VAHC có thể là chứng cứ, nhưng chúng phải có giá trị chứng minh nhất định trong việc giải quyết vụ án, đó là có giá trị chứng minh về nội dung hoặc tố tụng của vụ án. Nếu một tình tiết có thật, có liên quan đến vụ án, nhưng lại không có giá trị chứng minh thì cũng sẽ không được coi là chứng cứ và không được sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án. Chứng cứ không chỉ đơn thuần là cung cấp thông tin mà còn có giá trị chứng minh, nghĩa là chứng cứ không chỉ nằm ở việc đưa ra thông tin, mà còn ở việc thông tin đó có thể chứng minh được hay không. Không phải tất cả thông tin, tình tiết, sự kiện đều có khả năng chứng minh cho một luận điểm, một vấn đề nào đó phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. Do đó, thông tin cần phải được chọn lọc, kiểm chứng và có độ tin cậy cao để mang lại giá trị chứng minh.
Thứ ba, chứng cứ trong VAHC được “TA thu thập theo trình tự, thủ tục do luật TTHC quy định”. Tức là khi TA thu thập chứng cứ phải thực hiện đầy đủ và đúng theo các nội dung, các yêu cầu, các công việc phải làm mà Luật TTHC đã quy định để có được chứng cứ mà TA muốn. Nếu những gì TA thu thập được mà không đúng theo trình tự, thủ tục do luật TTHC quy định, thì không thể sử dụng làm chứng để giải quyết VAHC. Quy định này để bảo đảm pháp lý cho việc ghi nhận những giá trị chứng minh chính xác của chứng cứ. Bởi vì, nếu thu thập chứng cứ mà không tuân thủ theo các quy định của pháp luật, chỉ cần một thiếu sót nhỏ trong quá trình thu thập chứng cứ, cũng có thể dẫn đến làm sai lệch nội dung sự việc, có thể gây ảnh hưởng đến kết quả giải quyết VAHC.
Thứ tư, chứng cứ được “TA sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. Chứng cứ chỉ phát sinh giá trị khi được TA sử dụng một cách hợp lý để tìm ra sự thật khách quan và giải quyết đúng vụ án. Thông qua chứng cứ, TA sẽ đưa ra được những phán quyết đúng đắn, công minh, hợp lý, hợp tình đảm bảo được tối đa các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. TA là nơi duy nhất có quyền quyết định sử dụng chứng cứ nào để nhận định vào việc tuyên bản án. Cho nên, chứng cứ nào được TA dùng làm căn cứ, để xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự, là có căn cứ và hợp pháp hay không còn phụ thuộc ý chí chủ quan của TA khi xác định chứng cứ. Những tài liệu, sự vật có thật, liên quan đến vụ án, nhưng vì lý do nào đó không được TA sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án, thì không có ý nghĩa chứng cứ, không được xem là chứng cứ[1]. Nếu sự vật, hiện tượng nào đó đáp ứng tính có thật, tính hợp pháp, tính liên quan nhưng không được TA sử dụng thì được dân gian gọi là bằng chứng. Bằng chứng trở thành chứng cứ khi nó trở thành phương tiện để chứng minh yêu cầu của đương sự là hợp pháp hay không hợp pháp hoặc xác định các tình tiết khách quan của VAHC[2].
Nội hàm của khái niệm chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các quy định liên quan về chứng cứ. Khái niệm chứng cứ phải bao hàm được mối quan hệ giữa hình thức tố tụng và bản chất khách quan của chứng cứ, chủ thể và đối tượng chứng minh cũng như thể hiện đầy đủ các yếu tố nội hàm, đặc trưng của chứng cứ[3]. Nội dung về khái niệm chứng cứ trong Luật TTHC theo phân tích như trên là chưa phản ánh hết bản chất, nội dung của chứng cứ. Thể hiện:
Thứ nhất, nếu chỉ dừng lại ở quan điểm chứng cứ là những gì “có thật”, “khách quan” theo quy định của pháp luật hiện nay, là chưa phản ánh hết toàn bộ bản chất của chứng cứ. Để xác định những gì cho là chứng cứ, để sử dụng làm căn cứ giải quyết VAHC, thì không chỉ căn cứ vào sự phản ánh tính có “có thật” của nó. Để nhận thức đúng được vụ án, còn phải căn cứ vào đầy đủ thông tin, tình tiết, sự kiện về kết quả phản ánh tính có thật của chứng cứ. Nếu xem chứng cứ là những gì “có thật” như quy định là chưa phản ánh đúng bản chất của chứng cứ, dẫn đến khó nhận thức về chứng cứ hoặc thường mắc phải những sai lầm trong thu thập và đánh giá chứng cứ. Chỉ có những thông tin chính xác về tình tiết, sự kiện phản ánh sự thật khách quan của vụ án, hay“chứng cứ là những thông tin xác thực về những gì có thật”[4] mới được xem là nội dung của chứng cứ. Mặc khác, thuật ngữ “những gì có thật” còn mang tính chung chung có thể gây nhầm lẫn trong việc hiểu và áp dụng[5].
Thứ hai, theo khái niệm chứng cứ hiện nay chỉ cho rằng chứng cứ là “do TA thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định” là chưa thể hiện hết các chủ thể có quyền thu thập chứng cứ. Trường hợp VKS không đồng ý với bản án sơ thẩm, VKS có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm. VKS có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc kháng nghị. Cho nên, nếu chỉ quy định khái niệm chứng cứ trong VAHC là những gì có thật do TA thu thập được, mà không quy định chứng cứ do VKS thu thập được là chưa đầy đủ. Quy định không đầy đủ như vậy đã làm hạn chế đi vai trò của VKS trong việc thu thập chứng cứ, làm giảm đi giá trị của chứng cứ do VKS thu thập được. Trong khi đó cùng với TA, thì VKS cũng là cơ quan tiến hành tố tụng trong VAHC. Bên cạnh đó, các chủ thể khác trong VAHC như đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, cũng có thể thu thập chứng cứ để chứng minh. Do vậy, chỉ quy định về khái niệm chứng cứ là “do TA thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định” là chưa đầy đủ, thiếu quy định về chứng cứ do các chủ thể khác thu thập trong quá trình giải quyết VAHC.
Thứ ba, với quy định “chứng cứ được TA sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”, như vậy xác định chỉ có TA là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng chứng cứ phục vụ cho việc chứng minh những vấn đề khác nhau trong vụ việc là không hợp lý. Trong quá trình tiến hành tố tụng, không chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được sử dụng chứng cứ vào quá trình chứng minh, mà tất cả những người tham gia tố tụng cũng có quyền đưa ra chứng cứ, sử dụng chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhằm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ việc[6]. Bên cạnh đó, khi xem xét chứng cứ được TA dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không, nhằm giải quyết đúng đắn VAHC, là chúng ta đang xem xét đến mục đích chứng minh trong VAHC. Tức là, TA căn cứ vào chứng cứ, xem trong các yêu cầu đương sự thì yêu cầu nào đúng, yêu cầu nào sai, chứ nội dung này không nằm trong nội hàm của khái niệm chứng cứ. Bởi vì chứng cứ là phương tiện để chứng minh trong VAHC, chứ chứng cứ không phải là phương tiện để giải quyết VAHC. Việc giải quyết đúng đắn VAHC còn tùy thuộc vào áp dụng pháp luật nội dung, luật chuyên ngành điều chỉnh từng lĩnh vực hành chính có đúng không. Do đó, nên hiểu chứng cứ là phương tiện “Để xác định sự thật khách quan của vụ án”[7] thì phù hợp hơn.
Hoàn thiện khái niệm chứng cứ mang tính chất định hướng đúng đắn cho việc xây dựng, hoàn thiện các quy định khác liên quan đến chứng cứ. Do vậy, cần sửa đổi khái niệm chứng cứ quy định tại Điều 80 Luật TTHC như sau: “Chứng cứ trong VAHC là những thông tin, tình tiết, sự kiện phản ánh đúng sự thật khách quan, được xác định bằng các nguồn nhất định, được các chủ thể cung cung cấp, giao nộp, cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà chủ thể chứng minh dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án”.
[1] Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.188.
[2] Đại học Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội (2023), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr.166.
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.200.
[4] Đỗ Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học cảnh sát nhân dân, tr.17.
[5] Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2017), Giải thích và bình luận Luật TTHC năm 2015, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật Gia Việt Nam, tr.154.
Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng Việt Nam, Nxb. Chính trị-Hành chính, Hà Nội, tr.71.
[7] Đỗ Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học cảnh sát nhân dân, tr.17.