Thẩm quyền xét xử hành chính theo loại việc của Toà án nhân dân

Chi tiết sản phẩm

Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án hành chính. Đó là khả năng lưa chọn phương thức hoạt động, cách thức xử lý và nội dung quyết định trong từng tình huống cụ thể theo quy định của pháp luật khi thực hiện chức năng xét xử vụ án hành chính. Hình thức tồn tại của thẩm quyền là các quyền cụ thể được Toà án lựa chọn để xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án. Do đó, chỉ có thể hình dung đầy đủ thẩm quyền của Toà án thông qua việc xác định khả năng được phép lựa chọn phương thức hành động của Toà án chứ không phải thâng qua việc đánh giá các quyền đã được Toà án thực hiện trên thực tế. 

Thẩm quyền theo lãnh thổ 

Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, hệ thống Toà án nước ta được tổ chức ở ba cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện và tại tất cả các đơn vị hành chính lãnh thổ. Trong đó, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện đảm trách chức năng xét xử sơ thẩm. Do đó, với một vụ án hành chính cụ thể, cần phải xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án cấp nào, địa phương nào. 

Để giải quyết vấn đề trên, có hai nội dung cần làm rõ: Thứ nhất, phân định thẩm quyền xét xử hành chính giữa Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án nhân dân cấp tỉnh. Tức là xác định những khiếu kiện hành chính nào thì thuộc thẩm quyền thụ lý và giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện, những khiếu kiện hành chính nào thì thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Thứ hai, phân định thẩm quyền giữa các TAND địa phương cụ thể trong cùng một cấp đối với những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp đó. Tuy vậy, như đã nói ở trên, do Toà án nước ta tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ và trùng với cơ quan hành chính cả về lãnh thổ lẫn về cấp do đó, việc nghiên cứu thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ không tách rời nhau.

Điều 31. Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện

Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:

1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện;

2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án đối với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;

3. Khiếu kiện danh sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.

Điều 32. Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh

Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:

1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính;

2. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính;

3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó;

4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh;

6. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

7. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước[6] mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

8. Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật này.

Nhận xét về thẩm quyền xét xử hành chính theo cấp và theo lãnh thổ của TAND

    - Về thẩm quyền theo cấp: Khi (tiến hành) giải quyết vụ án hành chính, Toà án nhân dân (đặc biệt là Toà án nhân dân cấp tỉnh) phải chịu một áp lực hết sức nặng nề. Toà án phải giải quyết một vụ án mà trong đó, người bị kiện luôn là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Trong nhiều trường hợp, người bị kiện có địa vị trong bộ máy nhà nước bằng thậm chí là ở một cấp cao hơn so với Toà án đang xem xét vụ án. Ví dụ Toà án huyện xét xử vụ án hành chính mà người bị kiện là Ủy ban nhân dân cùng cấp hay trong trường hợp TAND tỉnh phải giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ Tư pháp hay của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, của Chánh án Toà án nhân dân tối cao… Vấn đề này phần nào được khắc phục nếu chúng ta tổ chức Toà án hành chính theo mô hình Tòa án khu vực.

    - Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Phương cách xác lập thẩm quyền theo lãnh thổ như quy định tại Điều 31, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính có thể tạo áp lực lên Toà án vì phải xét xử trực tiếp các cơ quan nhà nước trên cùng lãnh thổ của mình. Như chúng ta đã biết, Toà án nước ta phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan hành chính, chưa kể phụ thuộc về mặt tổ chức Đảng. Hạn chế này cũng có thể giảm bớt nếu như Toà án hành chính tổ chức theo mô hình Toà án khu vực hay thực hiện việc xét xử chéo giữa các Toà án cùng cấp.

 

Số điện thoại