Khái niệm: Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước[2]; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân.
Theo đó, chủ thể khởi kiện trong vụ án hành chính có một số đặc điểm sau:
Quyền khởi kiện của chủ thể khởi kiện chỉ phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích của họ bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Tuy nhiên cần lưu ý rằng không phải tất cả các chủ thể bị tác động bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều được thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính mà chỉ những chủ thể nào bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính thì mới có được quyền khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án nhân dân. Nói như vậy, nghĩa là đối với các cá nhân, cơ quan và tổ chức chỉ bị ảnh hưởng từ các quyết định hành chính, hành vi hành chính nhưng không chịu tác động trực tiếp bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó thì họ không có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên có thể hiểu là khi chủ thể quản lý ban hành các quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính đối với chủ thể bị quản lý nào thì chỉ chủ thể bị quản lý đó khi không đồng ý với các quyết định hành chính, hành vi hành chính mới có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Ví dụ: Do có hành vi sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao nên ông T là công chức Sở Tư pháp thành phố H bị kỷ luật buộc thôi việc. Với quyết định kỷ luật buộc thôi việc này không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ông T mà còn ảnh hưởng đến gia đình mà cụ thể là cha, mẹ và vợ, con của ông T do thu nhập bị giảm sút nghiêm trọng, cuộc sống không đảm bảo. Trong trường hợp này những người thân trong gia đình là cha, mẹ và vợ ông H mặc dù cũng bị ảnh hưởng ít nhiều từ quyết định kỷ luật buộc thôi việc nhưng họ không có quyền khởi kiện vụ án hành chính mà chỉ có ông T mới có quyền này vì ông T là người bị tác động trực tiếp của quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
Luật TTHC hiện nay quy định người khởi kiện có thể là cá nhân (gồm công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch) cũng có thể là tổ chức (gồm tổ chức có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân) đều có quyền khởi kiện vụ án hành chính. Như vậy, chủ thể khởi kiện vụ án hành chính có phạm vi tương đối rộng không chỉ riêng công dân Việt Nam, các tổ chức mang quốc tịch Việt Nam mà còn có cả cá nhân, tổ chức là người nước ngoài và người không quốc tịch vẫn có quyền khởi kiện vụ án hành chính khi bị tác động bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Về năng lực chủ thể tố tụng hành chính thể hiện cụ thể như sau:
Quy định tại Điều 54 Luật TTHC về năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành chính của đương sự
1. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng hành chính như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng hành chính.
3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi tố tụng hành chính của họ được xác định theo quyết định của Tòa án.
4. Đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật.
5. Đương sự là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện: người khởi kiện có quyền và nghĩa vụ chung như các đương sự khác theo quy định tại Điều 49 Luật TTHC, bao gồm:
- Cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do Toà án thu thập.
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án.
- Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
- Yêu cầu Toà án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Tham gia phiên toà.
- Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
- Ủy quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng.
- Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
- Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.
- Đối thoại trong quá trình Toà án giải quyết vụ án.
- Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
- Tranh luận tại phiên toà.
- Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án.
- Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
- Được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Toà án.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ có liên quan theo yêu cầu của Toà án.
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án.
- Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà.
- Nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
- Các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ trên, người khởi kiện còn có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 50 Luật TTHC:
- Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 49 của Luật này.
- Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi, bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.